Nhật rời Trung Quốc, nhưng không chọn Việt Nam?
Việt Nam trong bối cảnh hiện nay mà không nắm bắt cơ hội từ chuyện rời Trung Quốc thì thật uổng. Nhưng làm thế nào để nắm bắt được lại là chuyện khác – GS Yoshiharu Tsuboi, Cố vấn cao cấp của JICA.
Xin ông nói cụ thể hơn về hợp tác Nhật – Việt trong lĩnh vực chính sách tiền tệ.
Không phải quyết tâm 'suông'
Dường như xưa nay quá trình hoạch định chính sách của Việt Nam yếu, và luôn phải thay đổi chính sách liên tục, là do thiếu sự nghiên cứu, điều tra, khảo sát, cũng như một cơ sở dữ liệu, đầy đủ. Theo dõi sự phát triển của Việt Nam hai thập kỷ qua, ông có nhận ra điều này không?
Đúng vậy. Nhiều doanh nghiệp Nhật Bản phàn nàn, từ nhiều năm nay, rằng sự bất định, hay mơ hồ, của chính sách ở Việt Nam đã ảnh hưởng nhiều đến việc tính toán chiến lược kinh doanh của họ.
Tuy nhiên, xây dựng cơ sở dữ liệu là một quá trình vất vả, nghiêm túc, lâu dài và tốn nhiều tiền bạc, chứ không phải cứ hạ quyết tâm "suông" là được.
Là cố vấn cao cấp của JICA (Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản), ông có tư vấn cho tổ chức này dành một phần viện trợ để giúp Việt Nam xây dựng những cơ sở dữ liệu, và một thể chế hoạch định chính sách, không?
Xưa nay, phần lớn ODA của Nhật tập trung vào phát triển hạ tầng cứng như cầu đường, bến cảng, sân bay… Nhưng trong thời gian tới, một khoản ODA cũng sẽ được dành cho xây dựng thể chế, hay xây dựng năng lực. Và vai trò của tôi ở JICA cũng là để thúc đẩy điều đó.
Hiện nay, tôi và Đại sứ Yasuaki Tanizaki đang tập trung vào củng cố 5 lĩnh vực chính. Đó là xây dựng chiến lược công nghiệp ở Việt Nam, đào tạo nhân lực ở nhiều cấp độ (từ giáo dục đại học đến đào tạo nghề, đào tạo hộ lý), chính sách tiền tệ, sửa đổi hiến pháp và sản xuất phát hành đồng tiền của Việt Nam, thay vì phụ thuộc vào công nghệ của Úc.
![]() |
GS Tsuboi tại Hội thảo Việt Nam học lần thứ 4. Ảnh: Huỳnh Phan |
Xin ông nói cụ thể hơn về hợp tác Nhật – Việt trong lĩnh vực chính sách tiền tệ.
Từ đầu năm nay, Bộ Tài chính – Tổng cục Tài chính Nhật Bản đã thảo luận với các cơ quan tương nhiệm của Việt Nam về hướng giải quyết nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam, cũng như những biện pháp, trong đó có cả pháp lý, để ứng phó với nguy cơ đổ vỡ của nền kinh tế "bong bóng xà phòng", bắt đầu từ giao dịch bất động sản.
Thế còn về sửa đổi hiến pháp?
Cục Pháp chế Hạ viện Nhật, cũng như các chuyên gia hàng đầu về Hiến pháp như Giáo sư Hasebe Yasuo (Đại học Tokyo), hay Giáo sư Takami Katsutoshi (Đại học Sophia), đã tiến hành chương trình hỗ trợ tri thức cho ban soạn thảo sửa đổi hiến pháp của Việt Nam, gồm Bộ Tư pháp và Ủy ban Pháp luật Quốc hội.
Những vấn đề gì được phía Nhật tư vấn cho phía Việt Nam?
Chủ nghĩa lập hiến, cơ cấu chính trị, nhân quyền, hay tính độc lập của tòa án.
Bẫy lao động giá rẻ
Vào tháng 8.2010, tôi đã thấy ông trong cuộc hội thảo tại Viện Khoa học Xã hội Việt Nam liên quan đến hoạch định chính sách công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp hỗ trợ. Sau hơn 2 năm, đã có những bước tiến gì chưa ông?
Việt Nam cứ quẩn quanh mãi với việc xác định những ngành công nghiệp mũi nhọn mãi vẫn chưa xong, trong khi thế giới đã thay đổi nhiều rồi. Chẳng hạn, với ngành công nghiệp ô tô đã có sự thay đổi hướng phát triển sang xe chạy điện.
Vị Giáo sư Hungary mà chúng ta cùng nghe trình bày tại Hội thảo Việt Nam học, có nói rằng ưu thế lao động giá rẻ, như Việt Nam đang triệt để khai thác hiện nay, cũng là một cái bẫy lớn. Ông nghĩ thế nào?
Đúng vậy. Việt Nam không nên chọn con đường này nữa, bởi người lao động Việt Nam rất thông minh, nhanh nhẹn, và khéo tay. Ngoài việc nâng cao kỹ năng, nói chung là chất lượng lao động, Việt Nam cần xây dựng một thể chế phù hợp với tình hình mới.
Hiện nay, căng thẳng đang gia tăng giữa Trung Quốc và Nhật Bản liên quan đến Senkaku. Và khác với những căng thẳng trên biển ở khu vực này, căng thẳng về tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và Nhật Bản đã lan cả lên bộ, khi nhiều người Trung Quốc đã tranh thủ phá hoại các cửa hiệu, hay cơ sở sản xuất của người Nhật trên lãnh thổ Trung Quốc.
Ông có nghĩ việc tiếp tục sản xuất kinh doanh ở Trung Quốc sẽ an toàn cho các nhà đầu tư Nhật Bản? Liệu sẽ có một số nhà đầu tư Nhật sẽ chuyển một phần sản xuất sang Đông Nam Á, trong cái xu thế Trung Hoa cộng một, hoặc chuyển luôn nhà máy đi khỏi Trung Quốc? Liệu có cơ hội gì cho Việt Nam, tuy có vẻ không còn nhiều hấp dẫn về thu hút đầu tư, nhưng, lại rất đang rất khát vốn không?
Anh nói đúng, vấn đề này ở Nhật Bản đang là vấn đề nóng hổi, và đúng như anh nghĩ. Nhưng, rất tiếc, đa phần các nhà đầu tư chọn Indonesia, hay Thái Lan, chứ số chọn Việt Nam rất ít.
Tôi nghĩ Việt Nam, trong bối cảnh như anh nhận xét, mà không nắm bắt cơ hội này thì thật uổng. Nhưng làm thế nào để nắm bắt lại là chuyện khác. Các doanh nghiệp Nhật Bản đặc biệt quan ngại về sự bất định về luật pháp của Việt Nam, tức là khó tiên đoán được trong tương lai sẽ thay đổi theo kiểu gì.
Nhật Bản đã từng khởi xướng chương trình "Sáng kiến chung Nhật – Việt", nhằm cải thiện mối trường kinh doanh – đầu tư ở Việt Nam. Bây giờ, khi quan hệ hai nước đã là đối tác chiến lược, phía Nhật Bản có những đề xuất gì mới không?
Là một đối tác chiến lược, Nhật Bản nghiên cứu rất kỹ và hiểu rất rõ những điểm yếu của Việt Nam. Đó không chỉ về trình độ phát triển kinh tế, mà còn là trình độ điều hành xã hội, đất nước.
Nhật Bản mong muốn Việt Nam mạnh hơn nữa, không chỉ trong ngắn hạn, chẳng hạn như tăng cường sức mạnh quân sự, mà cả trong tương lai dài, bằng cách khắc phục những điểm yếu, để thực sự trở thành một nước có vị thế trong khu vực.
Để khắc phục được những nhược điểm trên, và thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược Nhật – Việt, chúng ta trước tiên phải nhanh chóng giải quyết ba vấn đề trọng tâm là hoàn thiện hệ thống pháp luật và khả năng điều hành làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế, phát triển nguồn nhân lực và hoạch định chính sách phát triển công nghiệp chủ lực (mũi nhọn).
Nếu được yêu cầu cho một lời khuyên về việc chọn ngành công nghiệp chủ lực, hay mũi nhọn, ông sẽ khuyên Việt Nam thế nào?
Theo tôi, Việt Nam nên chọn những ngành liên quan đến gia công chế biến nông sản, hay liên quan đến môi trường.
Xin cảm ơn ông.
Ba đề xuất của phía Nhật Bản đối với phía Việt Nam:
Thứ nhất là vấn đề tham nhũng và trì trệ về mặt thủ tục hành chính. Trên thực tế, khi triển khai bất kỳ một hoạt động nào đó ở Việt Nam, giai đoạn chuẩn bị và các thủ tục thường mất rất nhiều thời gian. Phía Nhật thường bị yêu cầu trả những khoản chi phí không rõ lý do, và có tâm lý không hài lòng khi nhiều công việc không thể tiến triển như mong muốn. Đây chính là vấn đề thiếu minh bạch về mặt chính trị và hành chính.
Thứ hai là nhiều doanh nghiệp Nhật Bản quan tâm và tìm đến Việt Nam do nghe thông tin là Việt Nam có nguồn nhân lực ưu tú và có tuổi đời trẻ. Tuy nhiên, trên thực tế, họ lại không tìm được nhân lực đáp ứng đúng nhu cầu.
Đặc biệt, có những ý kiến chỉ ra rằng, hiện nay nguồn nhân lực của chưa được đào tạo để có thể suy nghĩ được các vấn đề mang tính chiến lược, hay có tầm nhìn dài hạn cho khoảng 30-50 sau. Có thể nói trong 10 năm tới, việc đào tạo một thế hệ trẻ có khả năng đáp ứng được yêu cầu cả về mặt công nghệ và tri thức cho các lĩnh vực đa dạng của đời sống hiện đại là vấn đề có tính quyết định đối với tương lai của đất nước Việt Nam.
Thứ ba là chiến lược công nghiệp hóa. Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa xác định được đâu sẽ là ngành công nghiệp chủ lực trong tương lai. Điều này tạo ra những điều kiện bất lợi mang tính quyết định cho sự phát triển của Việt nam.
Nếu đến 2015-2016, Việt Nam vẫn chưa xác định được ngành công nghiệp chủ lực, cũng như làm sao để phát triển nó, thì nguy cơ cao là Việt Nam sẽ không thể thực hiện thành công chiến lược công nghiệp hóa đất nước đến năm 2020.
|
Huỳnh Phan
Tuần Việt Nam
Tags: work
ODA của Nhật giành cho Việt Nam không phải nhỏ, cũng phải đến cả tỷ Mỹ kim mỗi năm. Tuy nhiên, họ cho chúng ta 10 đồng thì đã phải tìm cách lại lấy lại 9 đồng rồi. Còn lại là trả chậm chứ không phải cho không (phần không hoàn lại thật ra rất nhỏ …), con cháu đời sau chính là kẻ phải gánh (thực tế là hiện nay Hưng Yên, Hải Phòng, Bắc Ninh trở thành khu công nghiệp của Nhật hết cả rồi, những thứ mà Nhật mang sang Việt Nam thật ra công nghệ và trình độ rất thấp, thấp hơn xa với những thứ mà họ đặt tại Đài Loan hay Tàu và Thái Lan) chưa kể các lãnh đạo thiên tài nhà ta coi đó là của trên trời rơi xuống, nên cứ mặc sức dùng vào mục đích khác, người ta gọi đó là tiền chùa (cũng là 1 dạng OPM) … Nước Nhật công chính, nghiêm minh thật, nhưng đó là tại trong nước, còn khi làm ăn tại Việt Nam, các đại diện phía Nhật cũng phần nào học được cái tập quán của Việt Nam đó là hối lộ, đút lót … Tham nhũng nghiêm trọng của Việt Nam, phần nào đến từ cái gọi là Mạnh thường quân đó …
Nhật Bản bị người dân gây áp lực, phải đóng cửa các nhà máy điện hạt nhân … cái rác thải hạt nhân, họ đang muốn tống đi … thì may thay các lãnh tụ thiên tài nhà ta hoan nghênh rước về … (tất nhiên là có tiền thì mới hân hoan thế chứ) …
Cho nên chúng ta ngưỡng mộ một xã hội kiểu như Nhật Bản … là 1 ao ước chính đáng vì xã hội của chúng ta hiện nay đang rất tồi tệ. Nhưng không phải là mù quáng. Singapore cũng như vậy, cũng chỉ là 1 kinh nghiệm, chứ không phải là rập khuôn.
Chúng ta cần phải biết ngồi lại với nhau, đoàn kết, suy ngẫm, rút ra bài học và tìm ra cho mình 1 con đường, 1 giải pháp chung … chứ không phải là chửi nhau và chia rẽ nữa. Và cũng chả phải ăn mày dĩ vãng hay copy thằng nào một cách mù quáng cả.
Thành tố đầu tiên trong binh pháp ODA Nhật là các Hiệp hội nghề nghiệp.
Các Hội nghề nghiệp của Nhật vận hành theo nguyên tắc của một xã hội dân sự, không bị can thiệp bởi chính quyền.
Những người trong cùng một ngành nghề, theo quy luật thị trường, sẽ phải cạnh tranh với nhau để sống còn. Nhưng ở Nhật Bản, văn hóa hiệp hội phát huy hiệu quả cao đến mức, quy luật này vận hành một cách khác thường.
Trong phạm vi hiệp hội, các thành viên coi cạnh tranh không phải là một hình thức tiêu diệt lẫn nhau, ngược lại, “cạnh tranh” là một hình thức của… “hợp tác”, thúc đẩy tinh thần thi đua và thử sức để cùng vươn lên.
Khi đối diện với người nước ngoài, chủ nghĩa ái quốc trong kinh tế được phát huy cao độ. Các thành viên sẽ hợp tác với nhau, gác qua cạnh tranh nội bộ, cùng nhau “sống còn” với đối thủ. Đó là cách họ bước ra thế giới từ hơn một thế kỷ nay.
Chính các tổ chức nghề nghiệp chứ không phải ai khác, là lực lượng đầu tiên đề xuất cho chính phủ của họ các dự án ODA cho các quốc gia bị họ xem là “con mồi”.
Thành tố thứ hai là tổ chức JICA (Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản).
“Vốn đầu tư phát triển” của JICA có hai loại. Một loại cho vay liên quan đến chuẩn bị cơ sở vật chất, và loại kia cho vay phục vụ cho “những công việc liên quan đến thí nghiệm”, là loại tiền xuất ra để “vừa bảo hiểm nợ vừa cho vay liên quan đến những sự nghiệp có tính tiên phong và khó khăn” như “thực hiện việc cải tiến kỹ thuật của doanh nghiệp”. 9
….
Các dự án cho vay ODA được điểm qua ở trên đều do JICA đảm nhiệm khâu đầu tiên: nghiên cứu, viết dự án, thuyết phục nước sở tại, vận động hành lang… nhằm đạt đến mục đích cho họ vay ODA.
Mấu chốt của binh pháp ODA nằm ở quá trình thuyết phục con mồi. Như phân tích của giáo sư Sumi Kazuo, họ tạo ra và duy trì một “nhu cầu viện trợ giả tạo” 10, hướng đến “lợi nhuận cho doanh nghiệp Nhật” 11 và “đưa ô nhiễm của Nhật ra nước ngoài” 12
Thành tố thứ ba là Chính phủ. Chính phủ đảm đương công việc kết nối tất cả các đầu mối trong nước và quốc tế, đảm bảo sự vận hành thông suốt của guồng máy ODA.
…
Kế hoạch JICA đề xuất với Thái Lan gồm 3 việc:
- Viện trợ không hoàn lại 3 tỷ Yên xây dựng 4 trung tâm trồng cây giống, cây non quy mô lớn, xây dựng các cơ sở huấn luyện, cung cấp xe cộ và các phương tiện cần thiết khác.
- Gửi đến Thái Lan các chuyên gia lâm nghiệp của Nhật để huấn luyện sản xuất cây giống và chỉ đạo việc trồng rừng.
- Phái đến “Đoàn thanh niên Hợp tác Quốc tế” của Nhật Bản để “khai sáng” cho nông dân Thái ý thức về tầm quan trọng của rừng và việc trồng rừng (“Khai sáng” là từ họ dùng trong nguyên văn)
Không rõ những thanh niên Nhật Bản kia đã “khai sáng” cho nông dân Thái Lan điều gì, nhưng nông dân Thái chỉ thích trồng bạch đàn vì đó là “loại cây biến thành tiền”, và không rõ 4 trung tâm sản xuất cây giống kia tạo ra loại cây gì, nhưng từ 1992 đến 1995, một trăm triệu cây giống được phát miễn phí cho nông dân Thái Lan để họ tự trồng rừng, và trong đó, hầu hết là cây bạch đàn để sản xuất giấy.
Khi cả một vùng đông bắc trồng bạch đàn, thì một mặt, giá bạch đàn ở đây sẽ vô cùng rẻ, và mặt khác, nguồn nước và nguồn dinh dưỡng của đất bị hủy hoại nghiêm trọng. Bên cạnh đó, việc nông dân được phát miễn phí cây giống bạch đàn với số lượng khổng lồ, là loại cây có lợi ích kinh tế trước mắt, đã làm cho diện tích rừng bạch đàn tăng vọt và diện tích rừng tự nhiên trước đó bị hủy hoại. Cái gọi là “hợp tác quốc tế” và “trồng rừng để bảo vệ thiên nhiên” chỉ là trò đùa. Hầu hết số tài sản 3 tỷ Yên của dự án đều phục vụ ngược lại cho Nhật Bản. Kết cục, dự án bị nhân sĩ Bangkok phản đối kịch liệt.
Nếu ví dự án ODA này là một cái bẫy thì cái lẫy then chốt của bẫy này là việc phát không cây giống cho nông dân tự trồng “rừng”. Thuyết minh cho chủ trương này, JICA đưa ra những lập luận tốt đẹp. Nông dân Thái Lan cũng đã trồng rừng một cách tự phát, vừa để bảo vệ môi trường vừa phục vụ nhu cầu cuộc sống. Vậy, có thể tận dụng điều này để thực hiện 2 việc một lúc: bảo vệ thiên nhiên và xóa đói giảm nghèo cho vùng đông bắc Thái 14 Làm sao chính phủ Thái có thể từ chối một lời đề nghị như thế?
Mưu kế này của JICA làm người ta nhớ lại những câu chuyện đấu trí được kể trong “Chiến quốc sách” ở bên Tàu.
Ở “Lời thú tội của một sát thủ kinh tế” của John Perkins, người đọc không hiểu vì sao một cá nhân như ông lại có thể làm được một khối lượng công việc khổng lồ là lần lượt thuyết phục các chính phủ Châu Mỹ La tinh, Đông Nam Á, Trung Đông lao theo những dự án giả dối nhằm phục vụ lợi ích tư bản Mỹ. Nhưng, ở trường hợp Nhật Bản lại hết sức dễ hiểu: thực hiện điều này không phải là một cá nhân mà là cả một bộ máy trong đó có những tổ chức đóng vai trò xung kích.
Nguyễn Lương Hải Khôi (Tokyo)
Đối với Việt Nam, việc tiếp cận các nguồn vốn quốc tế, trong đó có vốn vay ODA, là cần thiết để phát triển. Tuy vậy, nếu như những nước cần vốn có “chiến lược nợ” của mình, thì các nước giàu cũng có “chiến lược cho vay” của họ.
“Ngày xưa: chiến tranh, ngày nay: ODA”
Chiến lược ODA của Nhật Bản được xây dựng cùng với việc phải tuân thủ hiệp ước San Francisco 1951, theo đó Nhật phải bồi thường chiến tranh cho một số nước châu Á. Họ đã khôn khéo làm cho những đồng tiền “bồi thường” ấy quay trở về phục vụ lại cho chính họ.
Ví dụ, Nhật đã “bồi thường chiến tranh” cho Indonesia như thế nào? Trong quá trình đàm phán bồi thường, họ đã khôn khéo lồng vào ý sau đây trong điều khoản: “Nhật Bản sẽ cung cấp cho Indonesia các dịch vụ và sản phẩm của Nhật Bản trị giá tương đương 80,3 tỷ Yên” 3
Kết quả, Nhật Bản “bồi thường” cho Indonesia bằng cách xây dựng… những khu khách sạn cao cấp, những tòa căn hộ sang trọng, những khu mua sắm đắt tiền, những nhà máy sản xuất giấy, vải, gỗ… Những thứ này, nói như các tác giả của sách, “không thể hiểu nổi sao có thể gọi đó là bồi thường chiến tranh”. Bởi một mặt, những thứ này không phải “bồi thường” cho nhân dân Indonesia, và mặt khác, chúng đã làm rất nhiều nhà máy sản xuất giấy và ván ép non yếu của Indonesia phá sản4.
Để có thể “bồi thường” như vậy, chắc chắn không thể không nhờ đến cả những đàm phán sau cánh cửa.
Họ đã chuyển hóa sự “bồi thường” cho nạn nhân thành cái chính mình hưởng lợi, còn nạn nhân thì không được gì, hoặc được rất ít không như công bố, thậm chí bị thiệt hại nặng hơn trước. Cùng sự sự phục hưng kinh tế của Nhật sau chiến tranh, chiến lược ODA cũng được thực thi mạnh mẽ theo nguyên tắc nói trên.Những quốc gia “ngây thơ”, vô tình hoặc cố ý, bắt đầu một cuộc đua tài trí tuệ không cân sức với Nhật Bản.
Xin điểm qua một vài trường hợp điển hình.
Từ những năm 70, do các quốc gia ven biển bắt đầu được nhận vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, các công ty đánh bắt hải sản của Nhật bắt đầu bị hạn chế đánh bắt ở những ngư trường giàu có của nước cộng hòa Kiribati thuộc trung tây Thái Bình Dương. Hàn Quốc thì trả tiền cho Kiribati để được tiếp tục đánh bắt. Nhật thì triển khai một chiến lược khác. Họ đề xuất cho Kiribati cái gọi l�“Viện trợ không hoàn lại trong lĩnh vực thủy sản”, tặng cho nước này mấy chiếc tàu đánh cá và kho bảo quản hiện đại, và rồi khai thác hải sản của Kiribati với giá rẻ. 5
Giáo sư Sumi Kazuo trong sách “Sự thật của viện trợ ODA”, cũng chỉ ra rằng, giữa những năm 70, ngành sản xuất nhôm của Nhật bắt đầu gặp khó khăn, chính phủ Nhật lập tức xây dựng dự án viện trợ ODA cho Indonesia trong lĩnh vực khai thác nguyên liệu sản xuất nhôm trên đảo Sumatra. Mục đích của nó không chỉ là “hợp tác quốc tế”, mà còn là, như chính họ nói, nhằm “đầu tư để xác lập thế trận bảo vệ có tính chiến lược đối với nguyên liệu nhôm của đất nước chúng ta” 6.
Cùng với sự phục hưng kinh tế Nhật sau chiến tranh, “nền sản xuất số lượng lớn” và “xã hội tiêu thụ với số lượng lớn” sẽ không thể đứng vững nến không có một quá trình “tiêu hủy rác thải số lượng lớn”. Và vì thế, viện trợ của Nhật cho Indonesia liên quan đến rác cũng được đưa vào cỗ máy ODA này. “Ở Indonesia, một hệ thống xử lý rác thải tương thích với thực tiễn của Indonesia đã không hề được xây dựng, mà thay vào đó, những cơ sở “hiện đại hóa” thu gom rác quy mô lớn đã được xây dựng bằng ODA. Indonesia đã chăm sóc một lượng rác lớn của người Nhật” .
“Binh pháp” nào đã giúp Nhật thực hiện thành công những điều trên? Đó là cả một “thế trận” được sắp xếp một cách bài bản. Để tồn tại trước thế lực này, Việt Nam cần có một thế trận bài bản tương ứng.