Các quỹ hưu trí tư nhân đang biến mất?
![]() |
Nest Egg of Cash. Photo courtesy American Advisors Group. |
Lương hưu – tiền trả cho người già không còn làm việc nữa – xuất hiện đầu tiên vào thế kỷ 17. Lương hưu do nhà nước chi trả xuất hiện vào cuối thế kỷ 19 khi Bá tước Otto von Bismarck - Thủ tướng Đế chế Đức tìm cách duy trì lòng trung thành của tầng lớp lao động với Đức hoàng (the German Kaiser). Các quỹ hưu trí doanh nghiệp chỉ mới phát triển hàng loạt sau Thế chiến II dưới hình thức các chương trình hưu trí quyền lợi xác định trước (defined-benefit plan), trong đó thu nhập khi nghỉ hưu tỷ lệ với mức lương cuối cùng người lao động nhận được, tùy thuộc vào số năm làm việc.
Tuy nhiên chi phí cao khiến các công ty đang dần rút khỏi các chương trình hưu trí quyền lợi xác định trước này. Người lao động ngày nay có tuổi thọ cao hơn: trong các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), nam giới ở độ tuổi 65 có khả năng sẽ sống thêm khoảng 17,6 năm nữa so với 12,7 năm vào năm 1960. Trước đây, chi phí này được bù đắp bởi hoạt động thị trường chứng khoán sôi nổi (buoyant), thúc đẩy các công ty cam kết chi những khoản lớn hơn cho hưu trí. Tuy nhiên, kể từ năm 2000, thu nhập từ thị trường chứng khoán giảm sút khiến lợi tức trên trái phiếu cũng giảm theo. Các tranh cãi gần đây về cải cách tiền lương tại Chicago cho thấy nhân viên nhà nước cũng đang phải vật lộn với những vấn đề tương tự.
Khi các chương trình hưu trí quyền lợi xác định trước trở nên quá đắt đỏ, các chủ doanh nghiệp chuyển sang hình thức chương trình hưu trí tiền đóng góp xác định trước (defined-contribution plan), khi quỹ lương do cả chủ doanh nghiệp và người lao động cùng đóng góp. Ở Vương quốc Anh, từ lâu người lao động đã buộc phải mua annuity (tiền trợ cấp hàng năm), thu nhập cho phần đời còn lại của mình. Tuy nhiên, cũng giống các nguyên nhân mà chương trình hưu trí quyền lợi xác định trước trở nên tốn kém (tuổi thọ cao, lợi tức trái phiếu thấp), khoản lương hưu thu được từ mua tiền trợ cấp hàng năm cũng giảm. Nhiều người lao động cũng không hài lòng với hình thức này.
Chính phủ Vương quốc Anh đang bãi bỏ yêu cầu mua trợ cấp hàng năm; còn ở Mỹ, người lao động có quyền tự quyết đối với quỹ lương hưu của mình, kể cả việc mua xe thể thao. Tuy nhiên, vấn đề là chương trình hưu trí tiền đóng góp xác định trước mới này không hẳn là ‘lương hưu’ mà chỉ là những khoản tiền dự phòng (nest egg) na ná tài khoản tiết kiệm hay cổ phần từ việc sở hữu một căn nhà mà thôi. Và, thường thì họ không ngờ mình lại sống thọ hơn 5 năm hay lâu hơn thế so với dự tính.
Phương Thùy
The Economist
Tags: economics
Xin nhắc lại ở Úc không có tuổi nghỉ hưu bắt buộc như Việt Nam, bạn muốn làm việc đến khi nào thì tuỳ bạn. Điều quan trọng là bạn còn có ích cho nơi bạn làm việc hay không, cả về trình độ chuyên môn lẫn sức khoẻ, chứ tuổi tác không quan trọng. Ngược lại bạn cũng có thể nghỉ hưu sớm bất kỳ khi nào, miễn là bạn có đủ tiền để sống quãng đời còn lại mà không cần đi làm. Chỉ có những ai rất thành công/may mắn trong cuộc sống (về mặt tiền bạc) mới nghỉ hưu sớm và đó thường là điều họ tự hào.
Như vậy tuổi nghỉ hưu mà bài báo nói đến là gì? Trên thực tế ở Úc có 2 tuổi nghỉ hưu liên quan đến 2 loại "lương hưu" mà người Úc có thể nhận khi về già. Loại thứ nhất là tiền hưu do bạn buộc phải tiết kiệm khi còn đi làm. Trước đây luật Úc bắt buộc tối thiểu mỗi người có thu nhập phải trích ra 9% lương trước thuế đóng vào một quĩ đầu tư hưu trí theo dạng defined contribution (DC) gọi là superannuation hay nói tắt là super. Luật hiện tại yêu cầu tăng dần tỷ lệ này lên 12% trong giai đoạn 2014-2022. Đến khi bạn tròn 60 tuổi (tuổi nghỉ hưu thứ nhất) thì được quyền rút tiền từ super ra chi tiêu bất kể lúc đó bạn còn đi làm hay không. Tiền super chính là tiền của bạn tiết kiệm (phần bắt buộc và phần tự nguyện đóng thêm) cộng với lợi tức do quĩ super đầu tư giúp bạn đem lại.
Loại lương hưu thứ hai chỉ được nhận khi bạn tròn 65 tuổi theo luật hiện tại, đến năm 2023 sẽ tăng lên 67 và 2035 lên 70 như bài báo tường thuật. Thực ra đây không phải lương hưu đúng nghĩa mà là một dạng trợ cấp xã hội (social security/safety net) cho người già và nghèo. Nghĩa là để được nhận loại trợ cấp này ngoài việc phải trên tuổi nghỉ hưu thứ hai bạn phải có rất ít tài sản (nhà cửa, đầu tư, super) và thu nhập dưới một ngưỡng nhất định...
Hóa ra Thủ tướng (chancellor) Đức Otto von Bismarck mới là người "phát minh" ra hệ thống này từ cuối thế kỷ 19. Theo Wikipedia Mỹ là nước công nghiệp duy nhất không có một hệ thống social security khi Great Depression xảy ra. Như vậy có thể social security được copy lại từ mô hình châu Âu vì FDR nhìn thấy lợi ích của nó.
-----
The WSJ reports,
Starting in 2017, EU rules will require European governments to calculate the total amount they must pay current and future pensioners. Making this obligation more visible could spur them to deal with it, said Hans Hoogervorst, chairman of the International Accounting Standards Board and a former Dutch finance minister. “It will make clear that the current situation is unsustainable.”
Đường lối ngoại giao thực dụng (Realpolitik) và cai trị nghiêm khắc của Bismarck đã mang lại cho ông biệt danh "Thủ tướng Sắt" (Eiserne Kanzler). Nhà ngoại giao Hoa Kỳ Henry Kissinger ghi nhận:
Con người của 'sắt và máu' đã viết nên áng văn sáng ngời về sự chính trực, sánh ngang với lối sử dụng tiếng Anh một cách súc tích của Churchill
Ông đã thực hiện chính sách cân bằng quyền lực để duy trì sự ổn định của nước Đức và châu Âu trong các thập niên 1870 và 1880. Ông đã gây dựng một quốc gia-dân tộc mới, đồng thời hình thành nhà nước phúc lợi đầu tiên trên thế giới thông qua đạo luật thiết lập chế độ lương hưu cho mọi người lao động vào năm 1889. Mặc dù không thích chủ nghĩa thực dân, ông buộc phải miễn cưỡng xây dựng một đế quốc hải ngoại khi mà cả tầng lớp thống trị lẫn đại chúng đều yêu cầu thực hiện điều đó.
Bismarck, một tín đồ Luther mộ đạo, luôn trung thành với Wilhelm I, đổi lại nhà vua luôn tin dùng và tán đồng với các đường lối của Bismarck. Khi Đế quốc Đức mới ra đời ông đã cho thực hiện quyền phổ thông đầu phiếu đối với nam giới, Bismarck không ưa chuộng nền dân chủ và cai trị đất nước thông qua một guồng máy chính trị vững mạnh, bài bản với quyền lực nằm trong tay tầng lớp ưu tú Junker đại diện cho giới quý tộc địa chủ ở miền đông.